Dù chịu tác động của Covid-19, Việt Nam vẫn được dự báo là một trong những nền kinh tế phát triển nhanh nhất ở Đông Nam Á. Dân số đông, nỗ lực của chính phủ và sự hỗ trợ của các bên liên quan đối với đầu tư dược phẩm là những yếu tố khiến dược phẩm và y tế trở thành một thị trường màu mỡ.
Trước khi đi sâu tìm hiểu về sự phát triển và xu hướng của thị trường dược phẩm và y tế, hãy cùng chúng tôi nhìn nhận tổng quan về thị trường y tế này.
Thị trường Y tế
Thị trường y tế của Việt Nam có quy mô 331,3 nghìn tỷ VND vào năm 2019, chiếm 5,4% GDP của cả nước, và tăng lên mức 359,2 nghìn tỷ VND vào năm 2020. Trong đó nguồn từ ngân sách của Chính phủ chiếm 55,5% tổng chi tiêu cho y tế, chủ yếu thông qua bảo hiểm y tế. Tổng chi tiêu bình quân đầu người ở mức 149 USD – một mức tương đối khiêm tốn so với thế giới.
Hệ thống y tế
Việt Nam cần tăng cường chi tiêu cho y tế và cải thiện việc phân bổ quỹ ngân sách để giảm bất bình đẳng trong dân số. Mục tiêu tham vọng của Việt Nam là “dân giàu” thông qua các dự án cơ sở hạ tầng, đào tạo nguồn nhân lực và củng cố an ninh quốc gia. Các biện pháp này sẽ thu hút nhiều hơn các nguồn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài.
Việt Nam cũng cần chú trọng cải thiện các khâu như tiêm chủng, chăm sóc trước khi sinh, sinh sản và kế hoạch hóa gia đình để giúp đỡ người nghèo, đặc biệt là những người ở các vùng sâu, vùng xa.
Hệ thống y tế Việt Nam là sự kết hợp giữa hệ thống công và tư, trong đó hệ thống y tế công đóng vai trò chủ đạo, đặc biệt là về chính sách, phòng ngừa, nghiên cứu và đào tạo. Cơ quan quản lý y tế cộng đồng được tổ chức ở 3 cấp – trung ương, tỉnh và địa phương.
- Ở cấp trung ương, Bộ Y tế xây dựng và thực thi các chính sách y tế. Bộ cũng trực tiếp kiểm soát và cấp vốn cho các cơ sở nghiên cứu, các bệnh viện đa khoa và chuyên khoa.
- Ở cấp tỉnh, các sở y tế tỉnh tuân theo chính sách của Bộ Y tế, nhưng lại trực thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh (UBND tỉnh). Các sở y tế tỉnh này quản lý các bệnh viện và Trung tâm Y tế Dự phòng tỉnh, trong khi UBND tỉnh kiểm soát các khía cạnh hành chính và tài chính.
- Ở cấp địa phương có Trạm Y tế xã (TYT xã), Y tế thôn bản (YTTB) và bệnh viện huyện. Những cơ sở này cung cấp các dịch vụ cơ bản như chăm sóc dự phòng, kế hoạch hóa gia đình và nâng cao sức khỏe tổng thể trong cộng đồng.
Bảo hiểm y tế
Chương trình bảo hiểm y tế của Việt Nam được áp dụng vào năm 1992 (theo Nghị định số 299/1992 / HĐBT) dành cho công chức và một số nhóm người lao động. Năm 1998, Nghị định 58/1988 / NĐ-CP ra đời nhằm hợp nhất tất cả các quỹ bảo hiểm y tế cấp tỉnh thành một quỹ bảo hiểm y tế duy nhất. Phạm vi cũng được mở rộng cho các thành viên của Quốc hội và Hội đồng Nhân dân, những người được xã hội bảo vệ, giáo viên mầm non và các nhóm khác.
Sau đó, năm 2002, hệ thống Bảo hiểm Y tế Việt Nam (VHI) được chuyển giao cho hệ thống Bảo hiểm xã hội Việt Nam (BHXH Việt Nam), trở thành hệ thống chịu trách nhiệm về cả bảo hiểm xã hội và bảo hiểm y tế tại Việt Nam. Kể từ đó, một số thay đổi về quy định đã được thực hiện.
Việt Nam có 2 loại bảo hiểm y tế.
- Bảo hiểm y tế bắt buộc bao gồm các nhóm nhân khẩu sau đây: công chức; nhân viên hợp đồng; hạ sĩ quan và hạ sĩ quan trong lực lượng vũ trang; những người thụ hưởng an sinh xã hội; những người ưu tiên (ví dụ: thân nhân của các nhân viên lực lượng vũ trang và cựu chiến binh); sinh viên; trẻ em dưới sáu tuổi; công dân thu nhập thấp.
- Phần còn lại là bảo hiểm y tế tự nguyện.
Đối tượng tham gia bảo hiểm y tế được chia thành 5 nhóm, đó là người lao động, người sử dụng lao động, nhóm do cơ quan bảo hiểm xã hội hỗ trợ, nhóm được chính phủ hỗ trợ và nhóm tự đóng bảo hiểm.
Tính đến tháng 5 năm 2018, khoảng 85,6% dân số Việt Nam đã tham gia bảo hiểm y tế, cao hơn mục tiêu của nhà nước là 70%. Trong năm 2017, bảo hiểm đã chi trả cho 170 triệu lượt khám tại bệnh viện, với tổng chi phí là 3,8 tỷ USD.
Vào tháng 7 năm 2018, khoảng 70 loại thủ tục y tế và xét nghiệm tại các bệnh viện và phòng khám công đã được giảm từ 5-50% nhằm giảm bớt áp lực tài chính cho cả bệnh nhân và quỹ bảo hiểm y tế nhà nước.
Mục tiêu của Nghị quyết Hội nghị lần thứ 6 của Đảng Cộng sản Việt Nam nêu rõ, đến năm 2025, khoảng 95% dân số Việt Nam được tham gia chương trình bảo hiểm y tế quốc gia. Chính phủ cũng đặt mục tiêu đến năm 2025, chi phí y tế trực tiếp cho mỗi hộ gia đình sẽ thấp hơn 35% so với hiện tại. Hơn nữa, đến năm 2030, Việt Nam hy vọng sẽ nâng tuổi thọ trung bình lên 75 tuổi.
Hội nghị cũng đề ra một số các mục tiêu khác:
- Đến năm 2020, có ít nhất 95% trẻ em được tiêm chủng theo chương trình tiêm chủng mở rộng quốc gia và tỷ lệ tử vong ở trẻ em dưới 5 tuổi giảm xuống 18,5 ‰ và tỷ lệ tử vong ở trẻ dưới 1 tuổi là 12,5 ‰.
- Đến năm 2020, 95% trung tâm y tế xã, phường, thị trấn đảm nhận nhiệm vụ y tế dự phòng, quản lý sức khỏe và điều trị một số bệnh không lây nhiễm.
- Theo số liệu năm 2016, cả nước hiện có 25 giường bệnh, 8,7 bác sĩ và 14,1 y tá trên 10.000 dân và đến năm 2025, chính phủ đặt mục tiêu có 30 giường bệnh, 10 bác sĩ và 25 y tá trên 10.000 dân và nâng cao tỷ lệ hài lòng của người dân đối với dịch vụ chăm sóc sức khỏe cộng đồng.
Một số thách thức sẽ hạn chế việc thực hiện chăm sóc sức khỏe toàn dân trong ngắn hạn và trung hạn ở Việt Nam.
- So với một số nước trong khu vực (Indonesia, Philippines và Myanmar), Việt Nam có tỷ lệ dân số hưởng lương hưu cao nhất, và con số này dự kiến sẽ tăng lên 10,4% vào năm 2025.
- Do nhu cầu chăm sóc sức khỏe của dân số già khác với dân số trẻ, nên quỹ bảo hiểm quốc gia không những phải đảm bảo tính bền vững mà còn phải có khả năng chi trả nhiều dịch vụ y tế liên quan đến lớp dân số già.
- Chi phí cho y tế cộng đồng ở Việt Nam được tài trợ bởi ngân sách của nhà nước. Tuy nhiên vì ngân sách hạn hẹp, các bệnh viện nhà nước không được tiếp cận với các trang thiết bị hiện đại. Do đó, chất lượng phục vụ của các bệnh viện nhà nước còn yếu, chưa đáp ứng đủ nhu cầu của người bệnh, nhất là từ tuyến tỉnh đến tuyến xã.
Vẫn còn nhiều lỗ hổng trong hệ thống y tế cộng đồng của Việt Nam. Tăng trưởng kinh tế và thay đổi nhân khẩu học ở Việt Nam đang thúc đẩy nhu cầu về dịch vụ y tế, không chỉ ở hai trung tâm kinh tế xã hội – Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh – mà còn ở một số tỉnh và thành phố cấp 2.
Nhu cầu chăm sóc sức khỏe tại các tỉnh và thành phố cấp 2 tăng nhanh thúc đẩy sự phát triển của hệ thống y tế của cả nước. Các bệnh viện công cấp tỉnh do trung ương và tỉnh tài trợ được nâng cấp cơ sở vật chất, mở thêm các khoa mới để điều trị chuyên khoa. Sự phát triển như vậy tạo ra những cơ hội mới cho thị trường thiết bị y tế và dược phẩm.
Mặc dù vậy, tình trạng không đủ giường bệnh dẫn đến việc phải nằm ghép giường khi điều trị nội trú ở các bệnh viện tuyến trung ương và tuyến tỉnh đang làm giảm chất lượng điều trị, nhất là khi dịch bệnh bùng phát.
Việc thiếu hoặc không có công nghệ hiện đại làm hạn chế phạm vi điều trị của các bệnh viện tuyến tỉnh và cũng khiến các bệnh viện công không thu hút được bác sĩ. Điều này càng làm giảm chất lượng dịch vụ.
Hơn nữa, tình trạng thường xuyên thiếu kinh phí trong hệ thống y tế cộng đồng tiếp tục làm suy yếu khả năng tiếp cận dịch vụ chăm sóc sức khỏe, gây rủi ro cho triển vọng tăng trưởng doanh thu của các công ty dược phẩm đa quốc gia.
Lĩnh vực y tế tư nhân đang mở rộng nhanh chóng.
- Do không hài lòng với lĩnh vực y tế công kém hiệu quả và thiếu kinh phí, lĩnh vực y tế tư nhân sẽ tăng trưởng đáng kể trong những năm tới. Sự gia tăng thu nhập hộ gia đình trong dài hạn cũng sẽ mang lại lợi ích cho các bệnh viện tư nhân.
- Số lượng bệnh viện tư nhân đã tăng hơn gấp bốn lần, lên đến 170 bệnh viện trong thập kỷ qua và 200 dự án đầu tư vào bệnh viện đã được phê duyệt. Chính phủ Việt Nam cũng mong muốn phát triển y tế tư nhân, với mục tiêu đến năm 2020, bệnh viện tư nhân chiếm 20% tổng số bệnh viện cả nước.
- Thông qua việc trở thành thành viên của WTO, Việt Nam cho phép các nhà đầu tư nước ngoài thành lập các bệnh viện 100% vốn nước ngoài. Những đơn vị này dự đoán sẽ tăng trưởng mạnh mẽ và đây sẽ là động lực chính thúc đẩy tăng trưởng tổng thị trường chăm sóc sức khỏe trong những năm tới.
Từ góc độ thương mại, sự phát triển của khu vực y tế tư nhân sẽ thúc đẩy cơ hội mở rộng dài hạn cho các công ty dược phẩm và công ty thiết bị y tế tại Việt Nam. Với nền kinh tế được kỳ vọng sẽ tăng trưởng và thu nhập dự kiến tăng ổn định, chi tiêu bình quân đầu người cũng được dự báo sẽ tăng, làm tăng nhu cầu về y tế tư nhân của những người dân Việt Nam.
Dự báo Thị trường y tế
Mục tiêu của Chính phủ trong việc thiết lập một hệ thống chăm sóc sức khỏe toàn dân đặt ra những rủi ro lớn cho hệ thống y tế Việt Nam. Nguồn lực tài chính hạn chế có thể dẫn đến mức độ lạm phát cao hơn trong lĩnh vực y tế.
Chi tiêu cho y tế ở Việt Nam lên tới 331,3 nghìn tỷ VND (14,4 tỷ USD) vào năm 2019, trong đó Chính phủ chỉ chiếm chưa đến 50% tổng chi. Con số này được dự báo sẽ tăng lên 467,7 nghìn tỷ VND (19,3 tỷ USD) vào năm 2024 và 679,5 nghìn tỷ VND (26,9 tỷ USD) vào năm 2029, tương ứng với tốc độ tăng trưởng kép hàng năm (CAGR) trong 10 năm là 7,4%.
Chi tiêu cho y tế chiếm 5.5% trong GDP của cả nước, và có xu hướng giảm dần qua từng năm, và được dự báo giảm xuống còn 4.7% vào năm 2024. Bên cạnh đó, mức chi tiêu bình quân đầu người cho y tế được kỳ vọng sẽ tăng từ 149 USD năm 2019 lên 259 USD vào năm 2029.
Thị trường y tế của Việt Nam đang trong giai đoạn chuyển đổi khi nhiều cải cách trong lĩnh vực này đang được tiến hành. Cũng như nhiều nước láng giềng châu Á, Việt Nam đang nỗ lực đạt được cơ hội tiếp cận chăm sóc sức khỏe toàn dân thông qua việc triển khai hệ thống bảo hiểm y tế toàn diện.
Cam kết triển khai dịch vụ chăm sóc sức khỏe toàn dân sẽ định hình lại lĩnh vực này, có ý nghĩa quan trọng đối với cả các nhà cung cấp dược phẩm và y tế. Tuy nhiên những cơ hội này cũng đi kèm nhiều khó khăn và rủi ro. Nhất là nguồn lực tài chính hạn chế của Chính phủ có thể dẫn đến mức độ lạm phát cao hơn trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe.
Phân tích SWOT thị trường Y tế và Dược phẩm
Phân tích SWOT dưới đây được thực hiện bởi Fitch Solutions sẽ giúp chúng ta hiểu hơn về thị trường Y tế và Dược phẩm Việt Nam.
Điểm mạnh
- Tiềm năng tăng trưởng đáng kể do dân số ngày càng tăng và tỷ lệ đô thị hóa cao.
- Lĩnh vực y tế là ưu tiên của Chính phủ.
- Lĩnh vực thuốc gốc nội địa có quy mô lớn, được Chính phủ khuyến khích.
- Việc cải cách quy định liên tục và việc nới lỏng tỷ lệ của chủ sở hữu nước ngoài đã thúc đẩy sự hấp dẫn của cổ phiếu dược phẩm Việt Nam đối với các nhà đầu tư nước ngoài.
Điểm yếu
- Một trong những thị trường dược phẩm kém phát triển nhất ở Châu Á với mức chi tiêu bình quân đầu người cho dược phẩm thấp.
- Thuốc giả chiếm một số lượng đáng kể trên thị trường.
- Nhìn chung thị trường Y tế và Dược phẩm phụ thuộc vào nhập khẩu, đặc biệt là đối với các sản phẩm công nghệ cao và các thành phần dược phẩm hoạt tính và do đó dễ bị ảnh hưởng bởi biến động tiền tệ.
- Thiếu bao phủ y tế toàn dân do bất bình đẳng trong phân phối và cung cấp dịch vụ y tế ở nông thôn và thành thị.
Cơ hội
- Tư cách là thành viên đầy đủ của Tổ chức Thương mại Thế giới WTO giúp Việt Nam cải thiện môi trường thương mại và cuối cùng giải quyết các vấn đề thương mại dược phẩm.
- Yêu cầu các công ty trong nước tuân thủ các thông lệ sản xuất của quốc tế sẽ thúc đẩy xuất khẩu.
- Dân số già và gánh nặng bệnh mãn tính ngày càng tăng mang lại nhiều cơ hội lâu dài cho các sản phẩm thuốc kê đơn.
Thách thức
- Chính phủ phản đối việc điều chỉnh luật bằng sáng chế với các tiêu chuẩn quốc tế có thể ngăn cản sự mở rộng của khu vực công ty đa quốc gia.
- Hợp pháp hóa việc nhập khẩu ảnh hưởng đến tiềm năng thương mại của các loại thuốc đã được cấp bằng sáng chế.
- Tăng cường tập trung vào việc hạn chế chi phí liên quan đến các dịch vụ và thuốc được cung cấp theo chương trình bảo hiểm y tế quốc gia.
Kết
Trên đây là tổng quan về thị trường Y tế Việt Nam. Ở những bài viết sau, hãy cùng chúng tôi tìm hiểu sâu hơn về xu hướng phát triển cũng như nền tảng cạnh tranh của thị trường này.
Nguồn: Fitch Solutions
Lược dịch và hiệu đính: Hương Bùi (Babuki)
phân tích thị trường
y tế