Mô hình kinh doanh mô tả cách thức một tổ chức tạo ra, cung cấp và nắm bắt giá trị. Nó có thể được mô tả thông qua 9 khối “block”: Phân khúc khách hàng, Đề xuất giá trị, Kênh phân phối, Mối quan hệ khách hàng, Dòng doanh thu, Nguồn lực chính, Hoạt động chính, Đối tác chính & Cơ cấu chi phí.
Lịch sử mô hình kinh doanh
1994
Việc tìm kiếm để xác định một mô hình kinh doanh là gì bắt đầu từ năm 1994, khi Peter Drucker đưa ra lý thuyết về doanh nghiệp: là một tập hợp các giả định về những gì một doanh nghiệp sẽ làm và sẽ không làm, trong một bài báo cho “Harvard Business Review”. Ông nói về cách các công ty không theo kịp với các điều kiện thị trường thay đổi, cũng như các hoạt động của công ty trong việc xác định khách hàng và đối thủ cạnh tranh, các giá trị và hành vi của họ.
2002
Vào giữa cuộc khủng hoảng dot com năm 2002, Joan Magretta đã phát triển dựa trên định nghĩa kinh doanh của Drucker: yếu tố cốt lõi của các mô hình kinh doanh là những câu chuyện. Những câu chuyện giải thích cách thức hoạt động của doanh nghiệp. Một mô hình kinh doanh tốt trả lời những câu hỏi đã có từ lâu của Peter Drucker: ‘Khách hàng là ai? Và khách hàng coi trọng điều gì? ‘
Sự chuyển đổi từ kế hoạch kinh doanh sang mô hình kinh doanh đi đôi với sự gia tăng của máy tính cá nhân và việc sử dụng bảng tính (spreadsheet). Các doanh nhân đã từng lập kế hoạch kinh doanh của mình theo từng năm, từng quý và viết ra phiên bản cuối cùng dưới dạng một tài liệu gần giống như một cuốn sách. Sự thay đổi diễn ra song song với sự ra đời của công nghệ mới mạnh mẽ như Microsoft Excel, cho phép mọi người mô hình hóa chúng theo thướng kỹ thuật số và chính xác hơn. Hiện tại, bạn có thể tính toán toàn bộ lãi và lỗ cho một doanh nghiệp trên một trang Microsoft Excel.
Điều này có nghĩa là các doanh nghiệp có thể được mô hình hóa trước khi chúng thực sự được khởi chạy. Sản phẩm hoặc dịch vụ của doanh nghiệp có thể được tính toán trước về mặt doanh thu định kỳ, lợi nhuận, chi phí tiếp thị, chi tiêu quảng cáo, v.v. để mô hình hóa nền tảng hoạt động (framework) của doanh nghiệp.
2005
Sự thay đổi trong cách tiếp cận này đã thúc đẩy những người như Alexander Osterwalder và Yves Pigneur phát minh ra Business Model Canvas vào năm 2005, công cụ kinh doanh trực quan đầu tiên thuộc loại này. Đã qua rồi những ngày bạn phải đưa ra một kế hoạch kinh doanh dài hạn và rất phi thực tế, cố gắng dự đoán sản phẩm hoặc dịch vụ bạn sẽ bán trong vòng 5 năm tới.
Mô hình kinh doanh Canvas là gì?
Mô hình kinh doanh Canvas là một văn bản mẫu về quản lý chiến lược và khởi nghiệp tinh gọn để phát triển các mô hình kinh doanh mới hoặc tài liệu hóa các mô hình kinh doanh hiện có. Nó là một công cụ trực quan với các yếu tố để mô tả đề xuất giá trị, cơ sở hạ tầng, khách hàng và tài chính của một công ty. Nó cung cấp một cách thức có tổ chức để đưa ra các giả định không chỉ về các nguồn lực chính và các hoạt động chính trong chuỗi giá trị mà còn cả đề xuất giá trị, mối quan hệ khách hàng, kênh phân phối, phân khúc khách hàng, cấu trúc chi phí và dòng doanh thu.
Về cơ bản, mô hình kinh doanh Canvas đã lấy khái niệm giả định của Peter Drucker về ‘mô hình’ kinh doanh và biến nó thành một thứ gì đó hữu hình hơn nhiều, mà giờ đây chúng ta có thể nhìn thấy một cách trực quan và sử dụng như một công cụ để xem xét tất cả các khía cạnh khác nhau của một mô hình kinh doanh duy nhất.
Lý do sử dụng Mô hình kinh doanh Canvas?
Tạo ra một ngôn ngữ có thể chia sẻ được
Mô hình kinh doanh Canvas có thể trở thành một ngôn ngữ có thể chia sẻ được cho phép bạn dễ dàng mô tả và điều chỉnh các mô hình kinh doanh để tạo ra các lựa chọn thay thế chiến lược mới. Nếu không có ngôn ngữ chung như vậy, rất khó để phản hồi một cách có hệ thống các giả định về hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp và đổi mới thành công.
Đơn giản, Trực quan và Thực tế
Mô hình kinh doanh Canvas hoàn hảo cho bất kỳ cuộc thảo luận, cuộc họp hoặc hội thảo chất lượng về đổi mới mô hình kinh doanh và tạo ra một ngôn ngữ có thể chia sẻ được. Chúng ta cần một mô hình mà mọi người đều hiểu: một mô hình tạo điều kiện cho việc mô tả và thảo luận. Chúng ta cần bắt đầu từ cùng một điểm và nói về cùng một điều. Thách thức là mô hình này phải đơn giản, phù hợp và dễ hiểu trực quan, trong khi không đơn giản hóa quá mức độ phức tạp của cách thức hoạt động của doanh nghiệp.
Khám phá cơ hội
Bằng cách thực hiện quá trình liệt kê các bộ phận khác nhau của doanh nghiệp trên canvas, bạn bắt đầu hình dung và hiểu các mối quan hệ khác nhau giữa 9 khối “block” tạo nên công cụ này.
Lặp lại nhanh chóng
Bạn có thể lặp lại các thiết kế Mô hình kinh doanh Canvas của mình rất nhanh chóng. Công cụ này cho phép bạn tạo phiên bản nguyên mẫu đầu tiên và chỉ cần tiếp tục lặp lại cho đến khi bạn đã thử nghiệm đủ ý tưởng để tìm sản phẩm phù hợp với thị trường.
9 khối “block” của Mô hình kinh doanh Canvas
Chúng tôi tin rằng mô hình kinh doanh có thể được mô tả tốt nhất thông qua 9 “block” cơ bản thể hiện logic về cách một doanh nghiệp dự định mang lại giá trị và dòng tiền. 9 “block” bao gồm 3 lĩnh vực chính của doanh nghiệp: tính mong muốn, khả năng tồn tại và tính khả thi. Mô hình kinh doanh giống như một bản thiết kế cho một chiến lược được thực hiện thông qua cơ cấu tổ chức, quy trình và hệ thống. Chúng ta hãy cùng xem xét 3 lĩnh vực khác nhau này:
Tính mong muốn
Đề xuất giá trị
“Block” đề xuất giá trị mô tả gói sản phẩm và dịch vụ tạo ra giá trị cho Phân khúc khách hàng cụ thể. Đề xuất giá trị là lý do tại sao khách hàng lựa chọn doanh nghiệp này thay vì doanh nghiệp khác. Nó giải quyết một vấn đề của khách hàng hoặc đáp ứng một nhu cầu của khách hàng.
Mỗi đề xuất giá trị bao gồm một gói sản phẩm và / hoặc dịch vụ được chọn đáp ứng các yêu cầu của Phân khúc khách hàng cụ thể. Theo nghĩa này, Đề xuất giá trị là một tập hợp hoặc gói, các lợi ích mà một doanh nghiệp cung cấp cho khách hàng. Một số đề xuất giá trị có thể mang tính đổi mới và đại diện cho một đề nghị mới hoặc mang tính đột phá. Những đề xuất khác có thể là những đề xuất hiện có trên thị trường, nhưng có thêm các tính năng và thuộc tính.
Phân khúc khách hàng
“Block” phân khúc khách hàng xác định các nhóm khách hàng (cá nhân hoặc tổ chức) khác nhau mà một doanh nghiệp hướng tới để tiếp cận và phục vụ. Khách hàng là trọng tâm của bất kỳ mô hình kinh doanh nào. Không có khách hàng (có lợi nhuận), không công ty nào có thể tồn tại lâu dài. Để đáp ứng khách hàng tốt hơn, một công ty có thể nhóm họ thành các phân khúc riêng biệt với các nhu cầu chung, hành vi chung hoặc các thuộc tính khác mà có điểm chung. Một mô hình kinh doanh có thể xác định một hoặc một số phân khúc khách hàng, lớn hoặc nhỏ. Một tổ chức phải đưa ra quyết định về phân khúc nào sẽ phục vụ và phân khúc nào cần bỏ qua. Sau đó, một mô hình kinh doanh có thể được thiết kế một cách cẩn thận dựa trên sự hiểu biết sâu sắc về các nhu cầu cụ thể của khách hàng.
Kênh phân phối
“Block” kênh phân phối mô tả cách thức một doanh nghiệp giao tiếp và tiếp cận các Phân khúc khách hàng của mình.
Kênh là điểm tiếp xúc với khách hàng, đóng vai trò quan trọng trong trải nghiệm khách hàng. Các kênh phục vụ một số chức năng, bao gồm:
- Nâng cao nhận thức của khách hàng về các sản phẩm và dịch vụ của doanh nghiệp
- Giúp khách hàng đánh giá Đề xuất giá trị của một doanh nghiệp
- Cho phép khách hàng mua các sản phẩm và dịch vụ cụ thể
- Cung cấp một Đề xuất giá trị cho khách hàng
- Cung cấp dịch vụ hỗ trợ khách hàng sau khi mua hàng
Mối quan hệ khách hàng
“Block” mối quan hệ Khách hàng mô tả các loại mối quan hệ mà một doanh nghiệp thiết lập với các Phân khúc khách hàng cụ thể. Một doanh nghiệp nên làm rõ loại mối quan hệ mà họ muốn thiết lập với từng Phân khúc khách hàng. Các mối quan hệ có thể từ cá nhân hóa đến tự động hóa. Mối quan hệ khách hàng có thể được thúc đẩy bởi những động lực sau:
- Có được khách hàng
- Duy trì khách hàng
- Thúc đẩy doanh số bán hàng (up-selling)
Khả năng tồn tại
Nguồn doanh thu
“Block” nguồn doanh thu đại diện cho tiền mặt mà một doanh nghiệp tạo ra từ mỗi Phân khúc khách hàng (doanh thu – chi phí = lợi nhuận).
Nếu khách hàng là trái tim của mô hình kinh doanh, thì dòng doanh thu chính là động mạch của nó. Một công ty phải tự hỏi, mỗi phân khúc khách hàng thực sự sẵn sàng chi trả cho giá trị nào? Trả lời thành công câu hỏi đó cho phép doanh nghiệp tạo ra một hoặc nhiều nguồn doanh thu từ mỗi phân khúc khách hàng. Mỗi nguồn doanh thu có thể có các cơ chế thiết lập giá khác nhau, chẳng hạn như giá cố định, có thể thương lượng, đấu giá, phụ thuộc vào thị trường, phụ thuộc vào sản lượng hoặc lợi nhuận.
Một mô hình kinh doanh có thể liên quan đến 2 loại dòng doanh thu khác nhau:
- Doanh thu giao dịch, kết quả từ các thanh toán một lần của khách hàng
- Doanh thu định kỳ, từ các khoản thanh toán liên tục để cung cấp đề xuất giá trị cho khách hàng hoặc cung cấp hỗ trợ khách hàng sau khi mua hàng
Cấu trúc chi phí
Cấu trúc chi phí mô tả tất cả các chi phí phát sinh để vận hành một mô hình kinh doanh. “Block” này mô tả các chi phí quan trọng nhất phát sinh khi vận hành theo một mô hình kinh doanh cụ thể.
Tạo ra và cung cấp giá trị, duy trì mối quan hệ với khách hàng và tạo ra doanh thu đều sẽ phát sinh chi phí. Các chi phí như vậy có thể được tính toán tương đối dễ dàng sau khi xác định các nguồn lực chính, hoạt động chính và quan hệ đối tác chính. Một số mô hình kinh doanh được định hướng chi phí nhiều hơn những mô hình khác. Chẳng hạn, những hãng hàng không được gọi là “no frills”, đã xây dựng các mô hình kinh doanh hoàn toàn xoay quanh cấu trúc chi phí thấp.
Tính khả thi
Nguồn lực chính
“Block” nguồn lực chính mô tả các tài sản quan trọng nhất cần có để làm cho một mô hình kinh doanh hoạt động. Mọi mô hình kinh doanh đều yêu cầu nguồn lực chính, cho phép doanh nghiệp tạo và đưa ra đề xuất giá trị, tiếp cận thị trường, duy trì mối quan hệ với phân khúc khách hàng và kiếm doanh thu.
Các nguồn lực chính khác nhau là cần thiết tùy thuộc vào loại hình doanh nghiệp bạn đang xây dựng. Một nhà sản xuất vi mạch đòi hỏi các cơ sở sản xuất được đầu tư vốn lớn, trong khi một nhà thiết kế vi mạch tập trung nhiều hơn vào nguồn nhân lực. Các nguồn lực chính có thể là vật chất, tài chính, trí tuệ hoặc con người. Các nguồn lực chính có thể được sở hữu hoặc cho thuê bởi công ty hoặc mua lại từ các đối tác chính.
Các hoạt động chính
“Block” hoạt động chính mô tả những điều quan trọng nhất mà một doanh nghiệp phải làm để mô hình kinh doanh của mình hoạt động. Mỗi mô hình đều yêu cầu một số hoạt động chính, những hoạt động quan trọng nhất mà một công ty phải thực hiện để vận hành thành công. Giống như tài nguyên chính, các hoạt động chính được tạo và đưa ra đề xuất giá trị, tiếp cận thị trường, duy trì mối quan hệ với khách hàng và kiếm doanh thu. Và cũng giống như tài nguyên chính, hoạt động chính khác nhau tùy thuộc vào loại mô hình kinh doanh. Đối với nhà sản xuất phần mềm Microsoft, các hoạt động chính bao gồm phát triển phần mềm. Đối với nhà sản xuất PC Dell, các hoạt động chính bao gồm quản lý chuỗi cung ứng. Đối với công ty tư vấn McKinsey, các hoạt động chính bao gồm giải quyết vấn đề.
Quan hệ đối tác
“Block” quan hệ đối tác chính mô tả mạng lưới các nhà cung cấp và đối tác để làm cho mô hình kinh doanh hoạt động. Các doanh nghiệp tạo dựng quan hệ đối tác vì nhiều lý do, và quan hệ đối tác đang trở thành nền tảng của nhiều mô hình kinh doanh. Các công ty tạo ra các liên minh để tối ưu hóa, giảm thiểu rủi ro hoặc có được các nguồn lực. Chúng ta có thể phân biệt giữa 4 loại quan hệ đối tác khác nhau:
- Liên minh chiến lược giữa các đối thủ không cạnh tranh
- Hợp tác: quan hệ đối tác chiến lược giữa các đối thủ cạnh tranh
- Liên doanh để phát triển các lĩnh vực kinh doanh mới
- Mối quan hệ người mua-nhà cung cấp để đảm bảo nguồn cung cấp đáng tin cậy
Các loại mô hình kinh doanh
Thương mại điện tử
Năm 1999, Amazon ra mắt nền tảng thương mại cho người bán bên thứ ba và tự thiết lập mình như một nền tảng thương mại điện tử cực kỳ thành công cho các nhà bán lẻ khác. Năm 2007 Amazon bắt đầu sử dụng nền tảng của mình để bán các thiết bị điện tử của riêng mình (máy đọc sách điện tử Kindle) và mở rộng sang các sản phẩm nhãn hiệu riêng với thương hiệu AmazonBasics.
Trong khi nhiều công ty đặt mục tiêu chuyển từ bán hàng sang nền tảng, Amazon thực hiện là chuyển đổi từ nền tảng sang bán hàng. Với việc kinh doanh nhãn hiệu riêng, Amazon bắt đầu cạnh tranh với các nhà cung cấp bên thứ ba cũng là khách hàng của hoạt động kinh doanh thương mại điện tử của mình. Amazon liên tục mở rộng danh mục sản phẩm nhãn hiệu riêng với nhiều lựa chọn (từ đồ điện tử đến quần áo và phụ kiện hàng ngày) và giá cả thấp hơn.
Freemium
Thuật ngữ “freemium” do Jarid Lukin đặt ra và được nhà đầu tư mạo hiểm Fred Wilson phổ biến trên blog của mình. Nó đại diện cho các mô hình kinh doanh, chủ yếu dựa trên Web, kết hợp các dịch vụ cơ bản miễn phí với các dịch vụ cao cấp phải trả phí. Mô hình freemium có đặc điểm là cơ sở người dùng lớn, được hưởng lợi từ ưu đãi miễn phí, không ràng buộc. Hầu hết những người dùng này không bao giờ trở thành khách hàng trả tiền; chỉ một phần nhỏ, thường là dưới 10% tất cả người dùng, đăng ký các dịch vụ trả phí cao cấp. Cơ sở nhỏ khách hàng trả tiền này bù đắp cho người dùng miễn phí. Điều này có thể thực hiện được vì chi phí cận biên thấp của việc phục vụ thêm người dùng miễn phí.
Trong mô hình freemium, các chỉ số chính cần xem là:
- chi phí trung bình để phục vụ một người dùng miễn phí
- tỷ lệ mà người dùng miễn phí chuyển đổi thành khách hàng trả phí (trả phí)
Flickr, trang web chia sẻ ảnh phổ biến được Yahoo! mua lại vào năm 2005, cung cấp một ví dụ điển hình về mô hình kinh doanh freemium. Người dùng Flickr có thể đăng ký miễn phí một tài khoản cơ bản cho phép họ tải lên và chia sẻ hình ảnh. Dịch vụ miễn phí có những hạn chế nhất định, chẳng hạn như không gian lưu trữ và số lượng tải lên tối đa bị hạn chế mỗi tháng. Với một khoản phí nhỏ hàng năm, người dùng có thể mua một tài khoản “pro” và tận hưởng không gian lưu trữ và tải lên không giới hạn, cùng với các tính năng bổ sung.
Nền tảng
Nền tảng đã có từ rất lâu đời, nhưng lại sinh sôi nảy nở cùng với sự phát triển vượt bậc của công nghệ thông tin. Thẻ tín dụng Visa, hệ điều hành Microsoft Windows, FinancialTimes, Google, bảng điều khiển trò chơi Wii và Facebook chỉ là một vài ví dụ về các nền tảng nhiều bên thành công.
Chính xác thì nền tảng nhiều bên là gì? Chúng là những nền tảng tập hợp hai hoặc nhiều nhóm khách hàng khác biệt nhưng phụ thuộc lẫn nhau. Nền tảng tạo ra giá trị như những đơn vị trung gian bằng cách kết nối các nhóm này. Ví dụ, thẻ tín dụng liên kết người bán với chủ thẻ; hệ điều hành máy tính liên kết các nhà sản xuất phần cứng, nhà phát triển ứng dụng và người dùng; báo chí liên kết độc giả và nhà quảng cáo; bảng điều khiển trò chơi video liên kết nhà phát triển trò chơi với người chơi.
Điều quan trọng là nền tảng phải thu hút và phục vụ đồng thời tất cả các nhóm để tạo ra giá trị. Giá trị của nền tảng đối với một nhóm người dùng cụ thể phụ thuộc đáng kể vào số lượng người dùng trên “các bên khác” của nền tảng. Bảng điều khiển trò chơi điện tử sẽ chỉ thu hút người mua nếu có đủ trò chơi cho nền tảng. Mặt khác, các nhà phát triển trò chơi sẽ chỉ phát triển trò chơi cho bảng điều khiển video mới nếu một số lượng đáng kể game thủ đã sử dụng nó. Do đó, các nền tảng nhiều bên thường phải đối mặt với tình thế tiến thoái lưỡng nan “gà và trứng”.
Một cách mà các nền tảng nhiều mặt giải quyết vấn đề này là trợ cấp (subsidizing) cho một phân khúc khách hàng. Mặc dù một nhà điều hành nền tảng phải chịu chi phí bằng cách phục vụ tất cả các nhóm khách hàng, họ thường quyết định thu hút một phân khúc đến với nền tảng bằng đề xuất giá trị miễn phí để sau đó thu hút người dùng ở “phía bên kia” của nền tảng. Một khó khăn mà các nhà khai thác nền tảng phải đối mặt là hiểu được trợ cấp cho bên nào và thiết lập giá như thế nào cho chính xác để thu hút khách hàng.
Nền tảng nhiều bên mang hai hoặc nhiều nhóm khách hàng khác biệt nhưng phụ thuộc lẫn nhau lại với nhau. Những nền tảng như vậy chỉ có giá trị đối với một nhóm khách hàng khi các nhóm khách hàng khác cũng có mặt. Nền tảng tạo ra giá trị bằng cách tạo điều kiện tương tác giữa các nhóm khác nhau. Một nền tảng nhiều bên phát triển về giá trị đến mức thu hút được nhiều người dùng hơn, một hiện tượng được gọi là hiệu ứng mạng.
Hãy cùng xem xét mô hình kinh doanh nhiều bên của Google
Là một nền tảng nhiều bên, Google có một mô hình doanh thu rất khác biệt. Google kiếm tiền từ một phân khúc khách hàng, các nhà quảng cáo, trong khi trợ cấp ưu đãi miễn phí cho 2 phân khúc khác: Người lướt web và người sở hữu nội dung. Điều này là hợp lý bởi vì Google càng hiển thị nhiều quảng cáo cho người lướt Web, thì nó càng kiếm được nhiều tiền từ các nhà quảng cáo. Do đó, doanh thu quảng cáo tăng lên sẽ thúc đẩy nhiều người sở hữu nội dung trở thành đối tác AdSense hơn nữa.
Các nhà quảng cáo không trực tiếp mua không gian quảng cáo từ Google. Họ đặt giá thầu trên các từ khóa có liên quan đến quảng cáo được kết hợp với các cụm từ tìm kiếm hoặc nội dung trên các trang Web của bên thứ ba. Việc đặt giá thầu xảy ra thông qua dịch vụ đấu giá của AdWords: từ khoá càng phổ biến, nhà quảng cáo càng phải trả nhiều tiền cho nó. Doanh thu đáng kể mà Google kiếm được từ AdWords cho phép Google liên tục cải thiện các ưu đãi miễn phí cho người dùng công cụ tìm kiếm và AdSense.
Tài nguyên chính của Google là nền tảng tìm kiếm, cung cấp 3 dịch vụ khác nhau: Tìm kiếm trên web (Google.com), quảng cáo (AdWords) và kiếm tiền từ nội dung của bên thứ ba (AdSense). Các dịch vụ này dựa trên các thuật toán “matching” và tìm kiếm độc quyền rất phức tạp được hỗ trợ bởi cơ sở hạ tầng CNTT mở rộng.
3 hoạt động chính của Google có thể được định nghĩa như sau:
- Xây dựng và duy trì cơ sở hạ tầng tìm kiếm.
- Quản lý 3 dịch vụ chính.
- Quảng cáo nền tảng cho người dùng, người sở hữu nội dung và nhà quảng cáo mới.
Saas
Năm 1999, Salesforce.com đã phá vỡ lĩnh vực quản lý quan hệ khách hàng (CRM) bằng cách cung cấp CRM như là một dịch vụ (CRM-as-a-service) qua Internet. Salesforce mở ra một thị trường mới và liên tục củng cố mô hình kinh doanh của mình bằng những cải tiến mới.
Salesforce.com được thành lập vào năm 1999 với mục tiêu “làm cho phần mềm doanh nghiệp dễ sử dụng như một trang web, giống như amazon.com.” Salesforce đã đi tiên phong cung cấp phần mềm như một dịch vụ (Saas) trong các công cụ quản lý quan hệ khách hàng. Công ty không dừng lại ở đó và đã không ngừng cải tiến các dịch vụ và mô hình kinh doanh của mình.
Đăng ký
Năm 2006, Spotify ra mắt dịch vụ âm nhạc trực tuyến miễn phí để cạnh tranh với nhạc vi phạm bản quyền, miễn phí trên thị trường. Nguồn doanh thu chính của Spotify đến từ việc người dùng nâng cấp lên đăng ký trả phí.
Spotify là một nền tảng phát nhạc trực tuyến cho phép người dùng truy cập vào một danh mục lớn các bài nhạc. Nó sử dụng mô hình doanh thu freemium cung cấp dịch vụ cơ bản, có giới hạn và dịch vụ cao cấp không giới hạn có tính phí đăng ký.
Spotify chủ yếu dựa vào các thuật toán âm nhạc cũng như cộng đồng người dùng và nghệ sĩ để giữ cho trải nghiệm cao cấp của mình trở nên thú vị. Cơ sở người đăng ký trả phí đã tăng từ 10% tổng số người dùng trong năm 2011 lên 46% vào năm 2018.
Ngay từ đầu Spotify đã tự coi mình là một giải pháp thay thế hợp pháp cho nhạc vi phạm bản quyền và mua bài hát trả phí trên iTunes. Spotify chi trả một phần đáng kể doanh thu của mình dưới dạng tiền bản quyền cho các thương hiệu âm nhạc, gần 10 tỷ đô la tiền bản quyền kể từ khi ra mắt vào năm 2006.
Công ty đã đẩy nhanh quá trình chuyển từ tải nhạc sang phát trực tuyến và trong hành trình này đã làm gián đoạn (phá vỡ) Apple iTunes. Lần đầu tiên trong lịch sử công ty, Spotify tạo ra lợi nhuận vào năm 2019.
Đổi mới mô hình kinh doanh là gì?
Đổi mới mô hình kinh doanh mô tả các quy trình đổi mới và cơ sở lý luận về cách thức một doanh nghiệp tạo ra, cung cấp và nắm bắt giá trị thay vì cách tạo ra một sản phẩm hoặc dịch vụ mới. Về cơ bản, là quá trình xem xét lại doanh nghiệp của bạn xung quanh nhu cầu khách hàng mới, rõ ràng và sau đó sắp xếp lại các nguồn lực, quy trình và cách thức tạo ra lợi nhuận chính với đề xuất giá trị mới này.
Đó là cách tiếp cận không dễ thực hiện để đưa ra quyết định vì nó đẩy mọi người ra khỏi vùng an toàn của họ. Nhưng kết quả có thể rất ấn tượng, mang lại lợi thế cạnh tranh thực sự – và chúng ta đang thấy thường xuyên hơn sự gián đoạn kiểu này.
Lấy ví dụ về Amazon Web Services: Một dự án phát triển từ nhu cầu của công ty để cải thiện hiệu suất của riêng họ. Công ty tiếp tục tạo ra Amazon Web Services để cung cấp cho khách hàng các dịch vụ điện toán đám mây đáng tin cậy, có thể mở rộng và không tốn kém, chỉ trả tiền cho những gì họ đã sử dụng. Trong vòng 5 năm, dịch vụ này sẽ tiếp tục thống trị hoàn toàn thị trường điện toán đám mây và mang về cho Amazon hơn 10 tỷ đô la.
Ví dụ về mô hình kinh doanh
Dưới đây là 4 ví dụ về mô hình kinh doanh.
Tesla
Tesla được thành lập vào năm 2003 với mục tiêu thương mại hóa xe điện, bắt đầu từ những chiếc xe thể thao hạng sang và sau đó chuyển sang các loại xe ở thị trường đại chúng, giá cả phải chăng. Năm 2008, Tesla bắt đầu bán Roadster. Bước đột phá đầu tiên là vào năm 2012 khi ra mắt Model S.
Chiếc xe hơi “giá cả phải chăng” đầu tiên của Tesla, Model 3, được công bố vào năm 2015 và được sản xuất vào năm 2017. Trước Tesla, thị trường xe điện tương đối nhỏ và được phục vụ bởi các mẫu xe tiện dụng và không nổi bật. Tesla là nhà sản xuất ô tô đầu tiên có quan điểm khác biệt về thị trường xe điện: Tesla đã nhìn thấy cơ hội đáng kể khi tập trung vào hiệu suất và phân khúc cao cấp của thị trường.
Ikea
IKEA, công ty nội thất nổi tiếng, cũng dựa vào khách hàng như lực lượng lao động tự do của mình nhưng theo một cách khác. Hàng trăm nghìn khách hàng của IKEA tự lắp ráp giá sách, bàn và đồ nội thất khác tại nhà sau khi mua đồ nội thất dưới dang những chiếc hộp lớn tại các cửa hàng lớn.
Điều này là không tưởng trước khi IKEA làm nó trở nên phổ biến, bởi vì mọi người thường mong đợi các nhà sản xuất đồ nội thất thực hiện nhiệm vụ lắp ráp. Có một lý do khiến khách hàng sẵn sàng làm công việc đó là vì mô hình kinh doanh đồ nội thất dạng đóng hộp của IKEA mang đến sự lựa chọn lớn hơn, giao hàng ngay lập tức và tất cả với chi phí thấp hơn.
Dollar Shave Club
Dollar Shave Club (“DSC”) đã phá vỡ thị trường sản phẩm cạo râu bằng cách bán trực tiếp cho người tiêu dùng thông qua cửa hàng trực tuyến của mình. Bởi vì DSC cắt bỏ đơn vị trung gian (bán lẻ), họ có thể chuyển khoản chi phí tiết kiệm được cho khách hàng. DSC bù đắp cho việc thiếu thương hiệu có tiếng và độ phủ phân phối bằng cách khai thác sức mạnh của video lan truyền và tiếp thị qua internet.
Apple
Apple là một trong những nhà sản xuất điện thoại thông minh hàng đầu thế giới.
Cửa hàng ứng dụng của Apple kết nối hàng triệu người dùng iOS với vô số nhà phát triển phần mềm cung cấp hàng trăm nghìn ứng dụng. Đây là hệ sinh thái khó sao chép, không phải về mặt công nghệ. Ngay cả với công nghệ tốt nhất cũng rất khó để giành được thị phần. Chỉ có Google với hệ điều hành Android của mình mới có thể tạo ra một hệ sinh thái cạnh tranh.
Nguồn: Strategyzer
Babuki lược dịch và hiệu đính
chiến lược kinh doanh
mô hình kinh doanh