Thị trường sữa, kem, phô mai bao gồm các ngành chế biến sữa tươi thành các sản phẩm như sữa tiêu dùng, bơ, phô mai, sữa chua, sữa đặc, sữa khô (sữa bột) và kem, sử dụng các quy trình như làm lạnh, thanh trùng và đồng nhất hóa.
Quy mô và tăng trưởng thị trường sữa, kem, phô mai
Theo thống kê mới nhất, thị trường sữa, kem, phô mai đã đạt doanh thu vượt quá 100 nghìn tỷ đồng (4,4 tỷ USD), tăng 10% so với năm 2016, với sản phẩm sữa Việt Nam (Vinamilk) chiếm 50% tổng số.
Thị trường sữa, kem, phô mai vào năm 2020 dự kiến sẽ tăng gấp đôi quy mô, đạt 8.2 tỷ USD. Bên cạnh đó, theo báo cáo năm 2016 của EU-Vietnam Business Network (EVBN), thu nhập cá nhân và tiêu thụ sữa dự kiến sẽ tăng trưởng hàng năm ở mức 15% và 7%.
Việt Nam chứng kiến sự tăng trưởng tiêu thụ sữa khoảng 12% trong 03 năm qua. Ngành công nghiệp dự kiến sẽ tăng 9% mỗi năm, hoặc 27-28 lít / người / năm vào năm 2020. Có thể thấy rằng trong 03 năm gần đây, nguồn cung sản phẩm sữa từ nguồn trong nước đã tăng liên tục gần 50%, làm tỷ lệ sản xuất sữa tăng 13%.
Theo đánh giá của Công ty Chứng khoán TP. Hồ Chí Minh (HSC), thị trường sữa nói chung đã ở mức bão hòa. Với Vinamilk, việc gia tăng thị phần càng trở nên khó khăn hơn do công ty đã ở vị thế áp đảo ở hầu hết các phân khúc. Do đó, tăng trưởng doanh thu và lợi nhuận của Vinamilk nhiều khả năng sẽ ở mức tương đương với ngành sữa.
Phân khúc thị trường
Tổng giá trị sữa nước và sữa bột chiếm hơn 70% tổng thị trường. Hai thành phần quan trọng nhất quyết định sự phát triển của ngành sữa tại Việt Nam là sữa uống (sữa nước) và sữa bột. Năm 2016, sữa nước đạt hơn 1 tỷ lít; trong khi sữa bột đạt 110,8 nghìn tấn.
Thị trường sữa bột tăng trưởng với tốc độ gộp bình quân hàng năm (CAGR) là 12,7% trong 5 năm qua, nhưng trong năm 2017 tăng trưởng 9,8%.
Phân khúc sữa nước có CAGR là 14,6% trong 5 năm qua và tăng trưởng 13% trong năm ngoái.
Thị trường sữa nước ít cạnh tranh hơn so với mảng sữa bột vì các doanh nghiệp trong nước có lợi thế về nguồn cung.
Thị trường sữa chua tăng trưởng với tốc độ gộp bình quân hàng năm là 13,1% trong 5 năm qua và tăng 16% trong năm ngoái. Áp lực cạnh tranh ngày càng gia tăng đối với mảng sữa chua.
Xuất khẩu và Nhập khẩu
Việt Nam đã chi khoảng 850 triệu đô la Mỹ mỗi năm để nhập khẩu sữa và sản phẩm sữa. New Zealand vẫn là nhà cung cấp sữa lớn nhất cho Việt Nam. Tuy nhiên, tỷ lệ của quốc gia trong tổng giá trị nhập khẩu đã giảm từ 26% năm 2012 xuống còn 22% vào năm 2016. Giá trị nhập khẩu các sản phẩm từ Mỹ, Pháp, Đức, Hà Lan cũng đang trong xu hướng giảm. Khách hàng Việt Nam ngày càng quan tâm đến các sản phẩm sữa từ Singapore, Thái Lan và Úc.
Top công ty
Thị trường sữa Việt Nam hầu hết bị chi phối bởi 08 công ty hàng đầu, chiếm 90% thị phần, trong đó Vinamilk chiếm gần 50% với doanh thu thuần hơn 2 tỷ đô la Mỹ, tiếp theo là Nestle Vietnam (12%) và Nutifood Bình Dương (8%).
1. Sữa bột
Sữa bột chủ yếu là sữa công thức dành cho trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ. Hiện Vinamilk (VNM) dẫn đầu thị trường với thị phần khoảng 27% (mảng sữa bột đóng góp khoảng 26% doanh thu và 28% lợi nhuận gộp cho VNM trong năm 2017); Abbott đứng thứ 2 với 17%; tiếp theo là Friesland Campina với 12% thị phần.
Trong khi thị phần của cả Abbott và Friesland Campania vẫn giữ nguyên hoặc giảm nhẹ trong 3 năm qua, thì Nutifood nổi lên thành một nguy cơ lớn đối với Vinamilk ở phân khúc bình dân.
Thị phần của Nutifood đã tăng từ 10% trong năm 2014 lên khoảng 15% trong năm 2017. Nutifood có sản phẩm đa dạng và có giá thấp hơn 10%-15% so với Vinamilk. Điều này cho thấy Nutifood sẵn sàng chấp nhận biên lợi nhuận thấp để giành lấy thị phần từ đối thủ.
Bên cạnh đó, các hãng sữa quốc tế như Abbott, Friesland Campina, Mead Johnson, Nestle và nhiều hãng sữa nhỏ hơn khác đều có năng lực tốt về marketing và nghiên cứu, phát triển sản phẩm. Do vậy những doanh nghiệp này luôn luôn là nguy cơ cạnh tranh với Vinamilk.
Lợi thế của các hãng sữa quốc tế là sữa bột được nhập khẩu, nên các doanh nghiệp trong nước không có lợi thế về giá so với các doanh nghiệp ngoại. Các nhà máy chủ yếu được tự động hóa nên chi phí nhân công không phải là nhân tố chính yếu.
2. Sữa nước
Vinamilk là doanh nghiệp giữ thị phần số 1 trong mảng này. Mảng sữa nước chiếm khoảng 42% doanh thu và 42% lợi nhuận gộp của công ty trong năm 2017.
Các doanh nghiệp lớn khác trong ngành là Friesland Campina, TH true Milk, Nestle, IDP và Mộc Châu.
Hiện 30% sản lượng sữa nước sử dụng nguồn nguyên liệu trong nước. Trong đó, khoảng 10% là từ chính các nông trại của công ty.
70% nguyên liệu cho sữa nước được nhập khẩu từ New Zealand, Australia, châu Âu và Mỹ dưới dạng bột sữa (SMP và WMP). Nhờ vậy, các doanh nghiệp sữa của Việt Nam có nông trại có thể tiết kiệm chi phí vận chuyển. Hầu hết các công ty sữa nước ngoài không có nhà máy sữa nước tại Việt Nam và phải nhập khẩu thành phẩm với chi phí vận chuyển đắt đỏ.
3. Sữa chua
Sữa chua đóng góp khoảng 14% doanh thu và 16% lợi nhuận gộp của Vinamilk trong năm 2017. Thị phần sữa chua của Vinamilk đã giảm từ 90% trong năm 2012 xuống 84% trong năm 2017. Doanh nghiệp lớn thứ hai trong mảnh này là Friesland Campina với khoảng 8%-9% thị phần.
Trong khi đó, các đối thủ mới như IDP và TH true Milk đã gia nhập ngành với nhiều đột phá trong sản phẩm. Tập đoàn Kido (KDC) cũng đã tung ra thị trường sản phẩm mới là sữa chua đá.
Với sản phẩm sữa chua uống, phân khúc này tăng trưởng 17% trong năm 2017 với quy mô khoảng 4.850 tỷ đồng, nhỏ hơn so với phân khúc sữa chua ăn với quy mô 7.765 tỷ đồng và c ũng tăng trưởng 16% trong năm ngoái.
Theo đánh giá của Công ty Chứng khoán TP. Hồ Chí Minh (HSC), thị trường sữa nói chung đã ở mức bão hòa. Với Vinamilk, việc gia tăng thị phần càng trở nên khó khăn hơn do công ty đã ở vị thế áp đảo ở hầu hết các phân khúc. Do đó, tăng trưởng doanh thu và lợi nhuận của Vinamilk nhiều khả năng sẽ ở mức tương đương với ngành sữa.
Babuki sẵn lòng hỗ trợ, tư vấn anh/ chị về các thông tin thị trường hữu ích, đầu tư/ gọi vốn và giải pháp công nghệ. Anh/ chị có thể BẤM ĐỂ GỬI YÊU CẦU TỚI BABUKI.
Các bài viết liên quan về phân tích thị trường Việt Nam:
Thị trường sữa